ThS.BS Trần Thiên Tài
Tổng thư ký LCH Hen – Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng TPHCM
Đơn vị Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
Tổng quan về phù mạch di truyền
Phù mạch di truyền – Hereditary Angioedema (HAE) được xem là một bệnh lý hiếm gặp, cơ chế bệnh sinh của bệnh là sự tăng tính thấm thành mạch cục bộ gây ra sưng phù tổ chức da/dưới da hoặc niêm mạc/dưới niêm mạc [1, 2, 3]. Hiện nay, cơ chế của phù mạch di truyền đã được biết rõ là qua trung gian của hóa chất bradykinin, với sự di truyền gen trội trên nhiễm sắc thể thường.
Về phận loại, HAE được chia làm hai nhóm cơ bản (1) Phù mạch di truyền do thiếu hụt nồng độ hoặc giảm chức năng C1-INH (HAE-C1-INH) và phù mạch di truyền có C1-INH bình thường (HAE-nl-C1-INH) [1, 6-9]. HAE-C1-INH được chia thành hai dưới nhóm: HAE loại 1, chiếm 80 -85% các trường hợp, đặc trưng bằng thiếu hụt C1-INH và HAE loại 2 chiếm 15-20% các trường hợp, đặc trưng bởi sự suy giảm chức năng C1-INH (nồng độ C1-INH có thể bình thường hoặc tăng) [4, 5].
Bảng 1.1 Đặc điểm xét nghiệm của các thể bệnh HAE
|
Chức năng C1-INH |
Nồng độ C1-INH |
Nồng độ C4 |
HAE loại 1 |
Giảm |
Giảm |
Giảm |
HAE loại 2 |
Giảm |
Bình thường hoặc tăng |
Giảm |
HAE loại 3 |
Bình thường |
Bình thường |
Bình thường |
HAE loại 1 và HAE loại 2 đều do đột biến của gen mã hóa C1-INH (SERPING1), chiếm 95% các trường hợp. HAE-nl-C1-INH (hay còn gọi HAE loại 3) gặp chủ yếu ở nữ, có tỉ lệ hiện mắc rất thấp, có nồng độ và chức năng C1-INH bình thường, phụ thuộc vào estrogen và được chia thành các dưới nhóm dựa vào các đột biến gen liên quan: HAE-FXII do đột biến gen mã hóa yếu tố đông máu XII (FXII); HAE-PLG do đột biến gen mã hóa plasminogen; HAE-ANGPT1 do đột biến gen mã hóa angiopoitin-1; HAE-KNG1 do đột biến gen mã hóa kininogen1; HAE-MYOF do đột biến gen mã hóa myoferlin; HAE-HS3ST6 do đột biến heparin sulfate 3-o-sulfotransferase 6 gen và HAE-U không rõ gen đột biến.
Hình 1.1. Phân loại HAE hiện tại. Lược đồ hiển thị chia nhóm HAE chính thành HAE-C1-INH và HAE-nl-C1-INH. Trong mỗi nhóm chính, các nhóm con được phân loại dựa trên các tiêu chí trên. C1-INH, chất ức chế C1; HAE, phù mạch di truyền; HAE-C1-INH, HAE do thiếu C1-INH; HAE-n1-C1-INH, HAE với C1-INH bình thường.
Về dịch tể, nhiều tài liệu y văn trên thế giới cho thấy tỉ lệ mắc phù mạch di truyền khoảng 1/10.000 đến 1/150.000 người. Người ta nhận thấy, không có khác biệt về chủng tộc và giới tính ở HAE loại 1 và loại 2, riêng HAE loại 3 chủ yếu gặp ở nữ và có mối liên quan với hormone estrogen [6]. Tỉ lệ tử vong do phù mạch di truyền xấp xỉ 15-33%, phần lớn do phù thanh quản và đường hô hấp. Phù mạch di truyền thường gây ra 15.000-30.000 trường hợp cấp cứu mỗi năm ở Mỹ [7].
Về đặc điểm lâm sàng, các triệu chứng của HAE thường bắt đầu trong thời thơ ấu hoặc thanh thiếu niên, với độ tuổi khởi phát trung bình là 11,2 ± 7,7 tuổi (đa phần trước 20 tuổi) [2]. Các cơn cấp của phù mạch di truyền loại 3 thường theo sau sự gia tăng nồng độ estrogen ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai hoặc ở những người dùng liệu pháp thay thế hormone estrogen, điều này có thể đưa ra lời giải thích tại sao các đợt cấp HAE loại 3 xảy ra thường xuyên hơn ở phụ nữ. Tần suất các đợt cấp ở hầu hết các bệnh nhân không được điều trị xuất hiện từ hàng tuần đến dưới 1 năm. Mỗi cơn cấp điển hình kéo dài vài ngày trước khi tự hồi phục, vì vậy các bệnh nhân HAE trung bình phải đối mặt với các triệu chứng cơn cấp từ 20 đến 100 ngày mỗi năm.
Về gánh nặng y tế, HAE dù là bệnh hiếm gặp nhưng với các bệnh nhân đã mắc thì sẽ bị ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống. Các đợt cấp xảy ra thường xuyên, mức độ nặng của đợt cấp cũng như vị trí phù mạch ảnh hưởng nhiều đến tâm lý người bệnh. Phù thanh quản có thể tử vong nếu không được điều trị đúng và kịp thời làm gia tăng lo lắng, áp lực thậm chí có thể dẫn đến trầm cảm. Những yếu tố này cũng có thể là yếu tố khởi phát đợt cấp, và đợt cấp lại càng ảnh hưởng đến cảm xúc của người bệnh, đã tạo thành vòng xoắn luẩn quẩn làm giảm chất lượng cuộc sống. Nghỉ việc cũng như nghỉ học trong đợt cấp tác động đến người bệnh và cả gia đình của họ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho người bệnh HAE dễ mất các cơ hội trong công việc, học hành, làm ảnh hưởng đến kinh tế của người bệnh và gia đình họ, chưa kể đến các chi phí trực tiếp dành cho việc điều trị và khám bệnh [8]. Bên cạnh đó, việc chẩn đoán chậm trễ do HAE là bệnh hiếm, dẫn đến thiếu kiến thức về bệnh từ cả hai phía, người bệnh và bác sĩ. Người bệnh thường phải đi khám nhiều nơi, gặp nhiều bác sĩ, mất nhiều thời gian (trung bình 3-5 năm) kể từ lúc bắt đầu triệu chứng cho đến lúc được chẩn đoán cũng là những yếu tố góp phần làm trầm trọng bệnh cũng như làm giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Trường hợp lâm sàng về phù mạch di truyền được chẩn đoán tại Đơn vị Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
Sau đây chúng tôi xin trình bày 3 trường hợp lâm sàng được Đơn vị Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM chẩn đoán mắc phù mạch di truyền. 3 người bệnh là người thân trong cùng một gia đình có quan hệ huyết thống là người mẹ và 2 người con (con trai và con gái).
Trường hợp lâm sàng thứ nhất (Người mẹ)
- Hành chính
- Bệnh nhân: nữ sinh năm: 1963 (61 tuổi)
- Địa chỉ: Quận Phú Nhuận, TPHCM
- Nghề nghiệp: nội trợ
- Lý do đến khám: phù môi
- Ngày giờ thăm khám: lúc 10 giờ, ngày 11 tháng 6 năm 2024, tại Đơn vị Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
- Bệnh sử
- Cách 2 năm (năm 2022), bắt đầu có các triệu chứng sưng phù ở môi, cảm giác nghẹn trong cổ họng và khó thở. Trung bình 1 tháng có 1 đợt sưng môi, nghẹn trong cổ họng Những đợt phù môi không ghi nhận triệu chứng ngứa, không ban đỏ mày đay, cảm giác căng tức ở nơi phù, mỗi đợt phù kéo dài 3 ngày, tự hết.
- Trong năm 2022, đã nhập viện 8 lần vì khó thở.
- Không ghi nhận yếu tố kích phát mỗi khi có đợt cấp (dị nguyên, yếu tố môi trường, chu kỳ kinh nguyệt…)
- Ngày 11/6/2024, bệnh nhân đến khám tại Đơn vị Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, BV Đại học Y Dược TPHCM
- Tiền sử
Tiền sử bản thân:
- PARA: 3003 (1 trai, 2 gái)
- Không tiền sử dị ứng (thuốc, thức ăn, thời tiết…), không ghi nhận mắc các bệnh lý dị ứng, tự miễn.
- Mổ ruột thừa 1 lần năm 17 tuổi: không ghi nhận biểu hiện của phù mạch
- Trong quá trình mang thai không ghi nhận biểu hiện của phù mạch
- Nhổ răng vài lần: không ghi nhận biểu hiện của phù mạch
- Làm thẩm mỹ: cắt mi mắt 1 lần, không ghi nhận biểu hiện của phù mạch.
Tiền sử gia đình:
- Người con trai có nhiều đợt sưng phù tương tư, có hơn 10 lần đau bụng phải nhập viện, chẩn đoán: viêm da dày ruột.
- 2 người con gái: không có triệu chứng.
- Ba mẹ ruột và anh chị em ruột: không có triệu chứng
- Khám lâm sàng
- Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, sinh hiệu ổn, chiều cao: 155 cm, cân nặng: 52 ký
- Tại thời điểm thăm khám: ghi nhận tình trạng phù môi, không ngứa, không ban da, không khó thở.
- Không ghi nhận bất thường ở các cơ quan
- Chẩn đoán sơ bộ
- Theo dõi phù mạch di truyền
- Cận lâm sàng đề nghị
C4, định lượng C1inhibitor
- C4: < 9 mg/dL (15 – 45mg/dL) (giảm)
- C1 inhibitor (C1-esterase inhibitor): 9 mg/dL (21 – 39 mg/dL) (giảm)
- Chẩn đoán xác định
- Phù mạch di truyền
Trường hợp lâm sàng thứ hai (Người con trai)
- Hành chính
- Bệnh nhân: nam sinh năm: 1996 (28 tuổi)
- Địa chỉ: Q. Phú Nhuận, TPHCM
- Nghề nghiệp: Nhân viên văn phòng
- Lý do đến khám: Theo dõi phù mạch di truyền
- Ngày giờ thăm khám: lúc 9 giờ, ngày 19 tháng 6 năm 2024, tại Đơn vị Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
- Bệnh sử
- Năm 14 tuổi, bắt đầu có triệu chứng sưng môi, lưỡi
- Trung bình 1 – 2 tháng có 1 đợt sưng môi, tay, chân, cảm giác nghẹn trong cổ họng. Những đợt phù không ghi nhận triệu chứng ngứa, không ban đỏ mày đay, cảm giác căng tức ở nơi phù, có đau đầu mỗi đợt phù kéo dài 2-3 ngày, tự hết.
- Năm 2023 có 7 lần bị sưng môi, lưỡi tay, chân, trong đó có 3 lần có khó thở (chưa nhập viện lần nào vì khó thở)
- Từ năm 14 tuổi đến nay, đã nhập viên hơn 10 lần vì đau bụng với chẩn đoán viêm dạ dày ruột, chưa mổ thám sát.
- Đặc điểm kiểu đau bụng: Đau ở vị trí quanh rốn hoặc thượng vị, đau kiểu âm ỉ trên nền quặn từng cơn, đau không lan, cơn đau thường kéo dài khoảng 1 – 3 ngày. Trung tiện và đại tiện bình thường.
- Không có yếu tố kích phát rõ ràng (thức ăn, thuốc, môi trường, tâm lý…)
- Tiền sử:
Tiền sử bản thân
- Không tiền sử dị ứng (thuốc, thức ăn, thời tiết…), không ghi nhận mắc các bệnh lý dị ứng, tự miễn.
- Mổ ruột thừa 1 lần năm 18 tuổi
- Nhổ răng vài lần: không ghi nhận biểu hiện của phù mạch
Tiền sử gia đình
- Mẹ ruột: mắc bệnh phù mạch di truyền đã được chẩn đoán
- Ba và 2 người chị gái: không có triệu chứng
- Khám lâm sàng
- Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, sinh hiệu ổn, chiều cao: 170 cm, cân nặng: 75 ký
Tại thời điểm thăm khám không ghi nhận tình trạng phù, không ngứa, không ban da, không khó thở.
- Không ghi nhận bất thường ở các cơ quan
- Chẩn đoán sơ bộ
- Phù mạch di truyền
- Cận lâm sàng đề nghị
C4, định lượng C1inhibitor
- C4: 37 mg/dL (15 – 45mg/dL) (giảm)
- C1 inhibitor (C1-esterase inhibitor): 7 mg/dL (21 – 39 mg/dL) (giảm)
- Chẩn đoán xác định
- Phù mạch di truyền
Trường hợp lâm sàng thứ ba (Người con gái)
- Hành chính
- Bệnh nhân: nữ sinh năm: 1987 (37 tuổi)
- Địa chỉ: Q. Phú Nhuận, TPHCM
- Nghề nghiệp: Nhân viên văn phòng
- Lý do đến khám: Theo dõi phù mạch di truyền
- Ngày giờ thăm khám: lúc 8 giờ 30 phút, ngày 20 tháng 6 năm 2024, tại Đơn vị Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
- Bệnh sử
- Không ghi nhận các triệu chứng nghi ngờ đến bệnh phù mạch di truyền từ nhỏ đến nay.
- Tiền sử:
Tiền sử bản thân
- Chưa lập gia đình
- PARA: 0000
- Không tiền sử dị ứng (thuốc, thức ăn, thời tiết…), không ghi nhận mắc các bệnh lý dị ứng, tự miễn.
- Nhổ răng và làm các thủ thuật tiểu phẩu vài lần: không ghi nhận biểu hiện của phù mạch
Tiền sử gia đình
- Mẹ ruột và em trai: mắc bệnh phù mạch di truyền đã được chẩn đoán
- Ba và một người em gái: không có triệu chứng
- Khám lâm sàng
- Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, sinh hiệu ổn, chiều cao: 155 cm, cân nặng: 48 ký
Tại thời điểm thăm khám không ghi nhận tình trạng phù, không ngứa, không ban da, không khó thở.
- Không ghi nhận bất thường ở các cơ quan
- Chẩn đoán sơ bộ
- Phù mạch di truyền
- Cận lâm sàng đề nghị
C4, định lượng C1inhibitor
- C4: 06 mg/dL (15 – 45mg/dL) (giảm)
- C1 inhibitor (C1-esterase inhibitor): 9 mg/dL (21 – 39 mg/dL) (giảm)
- Chẩn đoán xác định
- Phù mạch di truyền
Bàn luận
Đây là 3 trường hợp lâm sàng phù mạch di truyền mà Đơn vị Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Đại học Y Dược phát hiện vào tháng 06/2024. Cả 3 bệnh nhân là người trong cùng một gia đình, có quan hệ huyết thống ruột thịt là mẹ, con trai và con gái.
Như đã trình bày, HAE là bệnh di truyền trội nhiễm sắc thể thường, có tính chất gia đình, tuy nhiên có 25% bệnh nhân xuất hiện đột biến mới de-novo, một số trường hợp có thể mang đột biến thể khảm sinh dục. [1, 9, 10]. Các nghiên cứu về sinh học phân tử đã cho thấy rằng, đột biến gen SERPING1 mã hóa C1-INH dẫn đến giảm nồng độ, chức năng C1-INH trong HAE loại 1 và 2. Trong HAE loại 3 với nồng độ và chức năng C1-INH bình thường có liên quan đến đột biến của các gen FXII, PLG, KNG1, ANGPT1, MYOF và HS3ST6. Đột biến gen mã hoá yếu tố XII (FXII) dẫn đến tăng sản xuất yếu tố XII được hoạt hóa thông qua plasmin. Đột biến gen mã hoá ANGPT1, dẫn đến làm giảm nồng độ angiopoietin 1, suy giảm khung xương các tế bào nội mô mạch máu, ảnh hưởng tính thấm thành mạch. Trong khi đó, đột biến gen mã hoá KNG1 kéo dài thời gian bán huỷ của bradykinin, tăng hoạt động của kinin này. Đột biến gen mã hóa plasminogen PLG dẫn đến tăng sản xuất bradykinin. Ngoài ra, các đột biến gen myoferlin MYOF, HS3ST6 cũng cho thấy sự liên quan đến sinh lý bệnh của HAE [1, 11]. Với 3 trường hợp lâm sàng mà chúng tôi đã trình bày, có yếu tố di truyền rất rõ ràng, trong một gia đình có 3 người cùng huyết thống được chẩn đoán phù mạch di truyền gồm người me, người con trai và người con gái.
Về yếu tố khởi phát đợt cấp trong HAE, có thể nói là khá đa dạng như [1, 12, 13]: Chấn thương (tai nạn hoặc liên quan đến các thủ thuật ngoại khoa, thủ thuật y khoa, thủ thuật nha khoa), sử dụng thuốc ngừa thai chứa estrogen, liệu pháp thay thế hormone, thuốc ức chế men chuyển, kinh nguyệt và một số yếu tố khác như stress, mệt mỏi, sốt, nhiễm trùng, thay đổi thời tiết. Riêng đối với trẻ em, y văn ghi nhận đa phần các đợt cấp xảy ra không có yếu tố khởi phát rõ ràng, trong đó, nhiễm trùng có vẻ là yếu tố khởi phát thường gặp nhất. Các yếu tố khởi phát khác liên quan đến các hoạt động thể chất mạnh gây chấn thương, hoặc các vấn đề về cảm xúc (stress) có thể xảy ra trong giai đoạn thơ ấu và tuổi thiếu niên [1]. Trong cả 3 trường hợp lâm sàng mà chúng tôi mô tả thì hầu như không ghi nhận yếu tố thúc đẩy nào là rõ ràng. Với bệnh nhân nữ 63 tuổi, các triệu chứng mới chỉ khởi phát vào năm 61 tuổi, trước đó người bệnh không có bất kỳ triệu chứng gì gợi ý đến phù mạch di truyền như các đợt phù cấp tái đi tái lại ở da và cơ quan nội tạng. Bệnh nhân nữ dù đã trải qua 3 lần sinh, nhiều lần gặp phải các sang chấn khác như thực hiện thủ thuật nha khoa, thẫm mỹ tuy nhiên lại không ghi nhận đợt cấp của HAE Cho đến cách thời điểm được chẩn đoán 2 năm, người bệnh mới xuất hiện những đợt sưng phù ở môi, lưỡi, khó thở và ở bệnh nhân này, triệu chứng khó thở là nổi bật và khiến người bệnh nhập viện đến 8 lần trong năm 2022 tại các cơ sở y tế địa phương. Trong khi đó, bệnh nhân nam 28 tuổi (người con trai), triệu chứng khởi phát lại khá sớm từ năm 14 tuổi, biểu hiện sưng phù tại các vị trí khác nhau trên da, môi và biểu hiện đường tiêu hóa rất rõ ràng, từ năm 14 tuổi cho đến thời điểm được chẩn đoán bệnh, tình trạng đau bụng do HAE khiến người bệnh phải nhập viện hơn 10 lần. Riêng trong năm 2023, người bệnh ghi nhận có 7 lần bị sưng môi, lưỡi trong đó có 3 lần có kèm theo triệu chứng khó thở nhưng chưa đến mức độ khiến người bệnh phải đến cơ sở y tế. Ngược lại, người con gái trong gia đình (con của bệnh nhân nữ và là chị của bệnh nhân nam) lại hoàn toàn khỏe mạnh, không ghi nhận bất kỳ triệu chứng nào của HAE từ trước đến nay, người bệnh được chẩn đoán HAE là do thực hiện cận lâm sàng tầm soát bởi có yếu tố gia đình theo tư vấn của bác sĩ. Những điều này cho thấy trên thực tế lâm sàng, thời điểm khởi phát triệu chứng và yếu tố thúc đẩy đợt cấp HAE là rất đa dạng dù những người mắc bệnh cùng huyết thống trong một gia đình.
Dấu hiệu phù mạch là sưng tấy không đối xứng và đau nhẹ ở vùng mặt, môi và/hoặc lưỡi, có thể xảy ra ở mu bàn tay, bàn chân hoặc bộ phận sinh dục và các cơ quan nội tạng. Bệnh nhân của chúng tôi có triệu chứng phù mạch ở môi, lưỡi, đường hô hấp và đường tiêu hóa là nổi bật, phù mạch vùng môi lưỡi này không đi kèm với mày đay hay ngứa, sau theo đó sẽ xuất hiện cảm giác nghẹn trong cổ họng gây triệu chứng khó thở hoặc các đợt đau bụng cấp ở vùng thương vị, vùng quanh rốn, đau quặn từng cơn trên nền đau âm ỉ, đau không lan, không gây buồn nôn và nôn, tất cả các triệu chứng này có thể kéo dài từ 1 – 3 ngày. Và tình trạng này không đáp ứng với các điều trị nội khoa thông thường khi chúng tôi khai thác được, nhiều đợt cấp của bệnh nhân tự giới hạn dù được điều trị với thuốc hoặc không. Các dấu hiệu lâm sàng khai thác được trên 2 bệnh nhân HAE là phù hợp với y văn, trong đó triệu chứng phù thanh quản gây đau, có thể gây tử vong do nghẹt thở là thường gặp và có hơn 50% bệnh nhân báo cáo ít nhất một lần xuất hiện phù thanh quản ở một số đợt cấp trong đời. Một điều cần lưu ý rằng khi có biểu hiện ở đường tiêu hóa thường là gợi ý của sự tắc nghẽn đường tiêu hóa, bao gồm đau bụng, buồn nôn, nôn, chướng bụng, mất nước, tiêu chảy hoặc táo bón. Hầu hết các đợt đau bụng không kèm sốt, dấu phúc mạc, hoặc tăng bạch cầu [14, 15]. Đợt cấp biểu hiện ở đường tiêu hóa có thể giống bệnh cảnh của đau bụng cấp ngoại khoa, dẫn đến các trường hợp có chỉ định phẫu thuật hoặc mở bụng thăm dò không cần thiết, tuy nhiên 2 bệnh nhân của chúng tôi dù nhập viện vì khó thở và đau bụng nhiều lần nhưng chưa có chỉ định phẩu thuật thám sát lần nào.
Về cận lâm sàng, trên một bệnh nhân HAE sẽ có thể cho các kết quả sau; nồng độ C4 thường giảm với độ đặc hiệu 85%, độ nhạy khoảng 81%, nồng độ C1-INH sẽ giảm với HAE loại 1 (ở người lớn bình thường 21-39 mg/dL) và HAE loại 2 thì bình thường. Bệnh nhân của chúng tôi thỏa mãn đầy đủ các tiêu chuẩn về cận lâm sàng khi kết quả xét nghiệm ở bệnh nhân nữ (người mẹ) cho thấy nồng độ C4: < 2.9 mg/dL (15 – 45mg/dL) (giảm), C1 inhibitor (C1-esterase inhibitor): 2.9 mg/dL (21 – 39 mg/dL) (giảm); bệnh nhân nam (người con trai) có nồng độ C4: 1.37 mg/dL (15 – 45mg/dL) (giảm), C1 inhibitor (C1-esterase inhibitor): 2.7 mg/dL (21 – 39 mg/dL) (giảm) và bệnh nhân nữ (người con gái) có nồng độ C4: 2.06 mg/dL (15 – 45mg/dL) (giảm), C1 inhibitor (C1-esterase inhibitor): 3.9 mg/dL (21 – 39 mg/dL) (giảm).
Bệnh HAE loại 1 và 2 là bệnh di truyền gen trội trên NST thường, hiếm gặp. Vì có tính chất gia đình nên các thành viên gồm ông, bà, bố, mẹ, chị em, con, cháu nội ngoại thuộc trực hệ của bệnh nhân HAE nên được làm xét nghiệm để sàng lọc bệnh gồm các xét nghiệm C4, nồng độ và chức năng C1-INH. Con của người bệnh HAE ½, có 50% nguy cơ mắc bệnh cho nên trẻ sơ sinh có tiền sử gia đình nên được theo dõi kỹ cho đến khi chẩn đoán loại trừ bệnh HAE. Có thể nói, 3 bệnh nhân vừa trình bày nằm trong chuỗi 1 gia đình mắc HAE điển hình.
Phù mạch di truyền tuy là bệnh lý hiếm gặp nhưng một khi mắc sẽ mang lại nhiều gánh nặng về y tế và chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Việc nhận biết HAE trên lâm sàng đôi khi khá khó khăn vì các triệu chứng của HAE thường là không đặc hiệu, biểu hiện rời rạc ở mỗi cơ quan và nhiều lúc không theo một kiểu hình đặc trưng. Qua các trường hợp lâm sàng HAE được phát hiện tại Đơn vị Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, việc chẩn đoán xác định HAE dựa vào lâm sàng và xét nghiệm theo các tiêu chuẩn sau thật sự là cần thiết bao gồm (1) Triệu chứng xuất hiện trong thời thơ ấu, thời niên thiếu và kể cả khi khởi phát muộn ở tuổi trung niên; (2) Triệu chứng đau bụng tái diễn; (3) Triệu chứng sưng phù môi, lưỡi kèm khó thở do phù nề đường hô hấp trên; (4) Có tiền sử gia đình có những người bị các triệu chứng tương tự; (5) Không đáp ứng với các thuốc điều trị thông thường như antihistamine, glucocorticoid, omalizumab, hoặc adrenaline khi được điều trị tại các cơ sở y tế; (6) Có sự hiện diện của tiền triệu trước khi phù nề; (7) Không có sự xuất hiện của mày đay và điều quan trọng cuối cùng là các bệnh nhân nghi ngờ HAE 1/2 cần được làm xét nghiệm định lượng C4, nồng độ C1-INH và chức năng C1-INH [16]. Với cách tiếp cận như vậy, sẽ giúp làm giảm tỷ lệ bỏ sót chẩn đoán và tăng số lượng bệnh nhân mắc HAE được phát hiện trong cộng đồng. Điều này góp phần cho việc quản lý tốt trong điều trị và phòng ngừa các biến chứng cấp nặng cho bệnh nhân HAE, hầu giúp người bệnh có được một chất lượng cuộc sống tốt nhất.
Tài liệu tham khảo
- Maurer M, Magerl M, Betschel S, Aberer W, Ansotegui IJ, Aygören-Pürsün E, et al. The International Wao/Eaaci Guideline for the Management of Hereditary Angioedema–the 2021 Revision and Update. World Allergy Organization Journal. 2022. 15(3):100627. doi:10.1111/all.15214.
- Bork K, Meng G, Staubach P, Hardt J. Hereditary Angioedema: New Findings Concerning Symptoms, Affected Organs, and Course. The American journal of medicine. 2006. 119(3):267-274. doi:10.1016/j.amjmed.2005.09.064.
- Zuraw BL, Christiansen SC. Pathophysiology of Hereditary Angioedema. Am J Rhinol Allergy. 2011. 25(6):373-378. doi:10.2500/ajra.2011.25.3661.
- Donaldson VH, Evans RR. A Biochemical Abnormality in Hereditary Angioneurotic Edema: Absence of Serum Inhibitor of C′ 1-Esterase. The American journal of medicine. 1963. 35(1):37-44. doi:10.1016/0002-9343(63)90162-1.
- Rosen FS, Charache P, Pensky J, Donaldson V. Hereditary Angioneurotic Edema: Two Genetic Variants. Science. 1965. 148(3672):957-958. doi:10.1126/science.148.3672.957.
- Australian Society of Clinical Immunology and Allergy. Hereditary Angioedema (Hae) Position Paper (2022) [cited 2022 Oct 1st 2022]. Available from: https://www.allergy.org.au/images/docs/ASCIA_HP_Position_Paper_HAE_2022_Updated_Nov.pdf.
- Buyantseva LV, Sardana N, Craig TJ. Update on Treatment of Hereditary Angioedema. Asian Pacific Journal of Allergy and Immunology. 2012. 30(2):89.
- Gompels M, Lock R, Abinun M, Bethune C, Davies G, Grattan C, et al. C1 Inhibitor Deficiency: Consensus Document. Clinical & Experimental Immunology. 2005. 139(3):379-394. doi:10.1111/j.1365-2249.2005.02726.x.
- Betschel S, Badiou J, Binkley K, Borici-Mazi R, Hébert J, Kanani A, et al. The International/Canadian Hereditary Angioedema Guideline. Allergy, Asthma & Clinical Immunology. 2019. 15(1):1-29. doi:10.1186/s13223-019-0376-8.
- Proper SP, Lavery WJ, Bernstein JA. Definition and Classification of Hereditary Angioedema. Allergy Asthma Proc. 2020. 41(Suppl 1):S03-s07. doi:10.2500/aap.2020.41.200040
- Banday AZ, Kaur A, Jindal AK, Rawat A, Singh S. An Update on the Genetics and Pathogenesis of Hereditary Angioedema. Genes Dis. 2020. 7(1):75-83. doi:10.1016/j.gendis.2019.07.002.
- Zotter Z, Csuka D, Szabó E, Czaller I, Nébenführer Z, Temesszentandrási G, et al. The Influence of Trigger Factors on Hereditary Angioedema Due to C1-Inhibitor Deficiency. Orphanet Journal of Rare Diseases. 2014. 9(1):44. doi:10.1186/1750-1172-9-44.
- Belbézier A, Arnaud M, Boccon-Gibod I, Pelletier F, McAvoy C, Gobert D, et al. Covid-19 as a Trigger of Acute Attacks in People with Hereditary Angioedema. Clinical & Experimental Allergy. 2021. 51(7):947-950. doi:10.1111/cea.13870.
- Prada AE, Zahedi K, Davis AE, 3rd. Regulation of C1 Inhibitor Synthesis. Immunobiology. 1998. 199(2):377-388. doi:10.1016/s0171-2985(98)80042-9.
- Ohsawa I, Nagamachi S, Suzuki H, Honda D, Sato N, Ohi H, et al. Leukocytosis and High Hematocrit Levels During Abdominal Attacks of Hereditary Angioedema. BMC Gastroenterol. 2013. 13:123. doi:10.1186/1471-230x-13-123.
- Maurer M, Magerl M, Betschel S, Aberer W, Ansotegui IJ, Aygoren-Pursun E, et al. The International Wao/Eaaci Guideline for the Management of Hereditary Angioedema-the 2021 Revision and Update. Allergy. 2022. 77(7):1961-1990. doi:10.1111/all.15214.
Tài liệu được hỗ trợ bởi công ty Takeda.